Lịch sử Vương quốc Macedonia

Thời kì đầu

Lối vào một trong những ngôi mộ hoàng gia ở Vergina, một Di sản thế giới của UNESCO

Các sử gia Hy Lạp cổ đại HerodotosThucydides thuật lại truyền thuyết rằng các vị vua Macedonia thuộc triều đại Argead là hậu duệ của Temenos, vua của Argos, và do đó có thể tuyên bố rằng Heracles là một trong những vị tổ tiên của họ cũng như là một hậu duệ trực tiếp từ Zeus, vị thần đứng đầu hệ thống các vị thần của người Hy Lạp.[13] Các truyền thuyết mâu thuẫn thì lại nói rằng Perdiccas I của Macedonia hoặc Karanos của Macedonia mới là người đã sáng lập nên triều đại Argead, cùng với đó là 5 hoặc 8 vị vua trước thời Amyntas I.[14] Các giám khảo Hellanodikai của Thế vận hội Olympic cổ đại đã cho phép Alexandros I của Macedonia tham gia vào các cuộc tranh tài sau khi ông ta khẳng định rằng nhà Argead có nguồn gốc từ Temenos.[15] Ít điều được biết đến về vương quốc trước triều đại của cha Alexandros I là Amyntas I của Macedon trong thời kỳ Cổ xưa.[16]

Vương quốc Macedonia nằm dọc theo sông HaliacmonAxiusHạ Macedonia, phía bắc của núi Olympus. Sử gia Robert Malcolm Errington cho rằng một trong số những vị vua nhà Argead đầu tiên đã chọn Aigai (ngày nay là Vergina) làm kinh đô của họ vào giữa thế kỷ thứ 7 TCN.[17] Trước thế kỷ thứ 4 TCN, vương quốc này bao phủ một khu vực tương ứng với phần phía Tâymiền trung của vùng đất Macedonia thuộc Hy Lạp ngày nay.[18] Nó dần dần mở rộng sang khu vực Thượng Macedonia vốn là nơi sinh sống của những bộ lạc Hy Lạp là người LyncestaeElimiotae và đến các vùng đất Emathia, Eordaia, Bottiaea, Mygdonia, Crestonia, và Almopia, vốn được định cư bởi nhiều bộ lạc khác nhau như là người ThracePhrygia.[note 2] Những người hàng xóm không phải người Hy Lạp của người Macedonia bao gồm người Thrace sinh sống ở những vùng đất phía đông bắc, người Illyri ở phía Tây Bắc, và người Paeonia ở phía bắc, trong khi vùng đất Thessaly ở phía Nam và Ipiros ở phía Tây được định cư bởi người Hy Lạp với những nét tương đồng về văn hóa với của người Macedonia.[19]

Một đồng octadrachm bằng bạc thuộc về Alexandros I của Macedonia (trị vì từ 498-454 TCN), đúc vào k. 465–460 TCN, nó khắc họa hình ảnh một Kỵ sĩ mặc một chlamys (áo choàng ngắn) và petasos (mũ đội đầu) trong khi đang giữ hai ngọn giáo và dắt một con ngựa
"Những người Ionia cùng với chiếc mũ hình khiên" (Chữ viết hình nêm Ba Tư cổ đại: 𐎹𐎢𐎴𐎠𐏐𐎫𐎣𐎲𐎼𐎠, Yaunā takabarā)[20] được mô tả trên ngôi mộ của Xerxes I tại Naqsh-e Rustam, có thể là các chiến binh Macedonia phục vụ trong quân đội nhà Achaemenes, đội những kausia đặc trưng của họ, khoảng năm 480 TCN.[21]

Một năm sau khi Darius I của Ba Tư (522-486 TCN) phát động một cuộc xâm lược vào châu Âu nhằm chống lại người Scythia, người Paeonia, người Thrace, và một vài thành bang Hy Lạp ở khu vực Balkan, vị tướng người Ba Tư Megabazus đã sử dụng ngoại giao để thuyết phục Amyntas I quy phục như là một chư hầu của đế quốc Achaemenes, điều này mở ra thời kỳ Macedonia thuộc Achaemenes.[note 3] Bá quyền của nhà Achaemenes đối với Macedonia đã bị gián đoạn trong một thời gian ngắn bởi cuộc nổi dậy của người Ionia (499–493 TCN), dẫu vậy vị tướng Ba Tư Mardonius đã đưa nó quay trở lại nằm dưới quyền bá chủ của nhà Achaemenes.[22]

Mặc dù Macedonia được hưởng một mức độ tự trị rộng rãi và chưa bao giờ bị biến trở thành một satrap (tức một tỉnh) của đế quốc Achaemenes, nó được cho là đã cung cấp binh lính cho quân đội nhà Achaemenes.[23] Alexandros I đã hỗ trợ về mặt quân sự cho Xerxes I (486-465 TCN) trong cuộc xâm lược Hy Lạp lần thứ hai của người Ba Tư vào năm 480–479 TCN, và những binh sĩ người Macedonia đã chiến đấu ở bên phía người Ba Tư tại Trận Platea vào năm 479 TCN.[24] Sau chiến thắng của người Hy Lạp tại Salamis vào năm 480 TCN, Alexandros I đã đóng vai trò là một đại sứ của nhà Achaemenes để đề xuất một hiệp ước hòa bình và liên minh với người Athens, tuy nhiên đề nghị này đã bị từ chối.[25] Ngay sau đó, quân đội của nhà Achaemenes đã buộc phải triệt thoái khỏi khu vực lục địa châu Âu, điều này đánh dấu sự chấm dứt quyền kiểm soát của người Ba Tư đối với Macedonia.[26]

Sự dính líu với văn minh Hy Lạp

Macedonia (cam) trong cuộc Chiến tranh Peloponnisos vào khoảng năm 431 TCN, với Athensliên minh Delos (vàng), Spartaliên minh Peloponnisos (đỏ), các quốc gia độc lập (xanh), và đế quốc Achaemenes của Ba Tư (tím)

Mặc dù ban đầu là một chư hầu của Ba Tư, Alexandros I của Macedonia đã xây dựng những mối quan hệ ngoại giao thân thiện với các kẻ thù Hy Lạp trước đây của ông, người Athen và Sparta-những thế lực lãnh đạo liên minh các thành bang Hy Lạp.[27] Người kế vị của ông ta, vua Perdiccas II (454-413 TCN) đã lãnh đạo người Macedonia tham gia vào bốn cuộc chiến tranh khác nhau chống lại Athens, thành bang lãnh đạo liên minh Delos, cùng lúc đó vị vua người Thrace Sitalces của vương quốc Odrysia lại tiến hành các cuộc xâm lược đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ của Macedonia ở phía đông bắc.[28] Chính trị gia người Athen, Pericles đã thúc đẩy quá trình thuộc địa hóa khu vực sông Strymon gần vương quốc Macedonia, tại đây thành phố thuộc địa Amphipolis đã được thành lập vào năm 437/436 TCN để nó có thể cung cấp cho Athens một nguồn cung vàng và bạc ổn định cũng như là gỗdầu hắc ín để cung cấp cho hải quân Athen.[29] Ban đầu Perdiccas II đã không có bất cứ hành động nào và có thể đã chào đón người Athen, vì người Thrace là kẻ thù chung của họ.[30] Điều này đã thay đổi khi người Athen thiết lập liên minh với một người em trai và em họ của Perdiccas II, những người đã nổi loạn chống lại ông.[30] Do đó, hai cuộc chiến tranh riêng biệt chống lại người Athens đã nổ ra trong khoảng thời gian từ năm 433 tới năm 431 TCN.[30] Vị vua Macedonia trả đũa bằng cách kích động cuộc nổi loạn của các đồng minh Athens ở Chalcidice và tiếp sau đó giành được sự ủng hộ từ thành phố có vị trí chiến lược là Potidaea.[31] Sau khi chiếm được các thành phố của người Macedonia là ThermaBeroea, Athens vây hãm Potidaea nhưng thất bại trong việc chiếm nó; Therma đã được trao trả lại cho Macedonia và phần lớn khu vực Chalcidice trở về tay của người Athens trong một hiệp ước hòa bình được trung gian bởi Sitalces, ông ta đã trợ giúp về quân sự cho người Athens đổi lại là có được các đồng minh Thrace mới.[32]

Perdiccas II đã đứng về phía Sparta trong cuộc chiến tranh Peloponnisos (431–404 TCN) giữa Athens và Sparta, vào năm 429 TCN Athens đã trả đũa ông bằng cách thuyết phục Sitalces xâm lược Macedonia, thế nhưng ông ta đã phải rút lui do không có đủ quân lương vào mùa đông.[33] Vào năm 424 TCN, Arrhabaeos, một vị vua địa phương ở Lynkestis thuộc Thượng Macedonia, đã nổi loạn chống lại Perdiccas, và người Sparta đã đồng ý giúp đỡ ông để dập tắt cuộc nổi loạn.[34] Tại Trận Lyncestis người Macedonia đã hoảng sợ và bỏ chạy trước khi cuộc chiến bắt đầu, khiến cho vị tướng Sparta là Brasidas nổi giận, binh sĩ của ông ta đã cướp bóc đoàn xe chở quân nhu vô chủ của người Macedonia.[35] Perdiccas sau đó đổi phe và ủng hộ người Athens, và ông đã thành công trong việc dẹp tan cuộc nổi loạn của Arrhabaeos.[36]

Một đồng Drachma của Macedonia được đúc dưới triều đại của Archelaos I của Macedonia (413-399 TCN)

Brasidas qua đời vào năm 422 TCN, cùng năm này Athens và Sparta đã đạt được một hiệp ước, hiệp ước Hòa bình của Nicias, nó đã giải thoát Macedonia khỏi giao ước là một đồng minh của Athen.[37] Sau trận Mantinea vào năm 418 TCN, những người Sparta chiến thắng đã thiết lập một liên minh với Argos, Perdiccas II đã nhiệt tình tham gia vào liên minh quân sự này vì mối đe dọa của các đồng minh Sparta còn lại ở Chalcidice.[38] Khi Argos đột nhiên đổi phe với tư cách là một nền dân chủ thân Athen, hạm đội Athen đã có thể thiết lập một cuộc phong tỏa chống lại các hải cảng của Macedonia và xâm lược Chalcidice vào năm 417 TCN.[39] Perdiccas II đã cầu hòa vào năm 414 TCN và thiết lập một liên minh với Athens, con trai và cũng là người kế vị của ông là Archelaos I (413-399 TCN) đã tiếp tục đường lối này.[40] Athens sau đó đã hỗ trợ về mặt hải quân cho Archelaos I trong cuộc vây hãm Pydna của người Macedonia vào năm 410 TCN, đổi lại cho điều này đó là nguồn gỗ và các trang bị cho hải quân của Athens.[41]

Dẫu cho Archelaos I đã phải đối mặt với một số cuộc nổi loạn và phải chống lại một cuộc xâm lược của người Illyri dưới sự lãnh đạo bởi Sirras của Lynkestis, ông ta đã có thể mở rộng ảnh hưởng của Macedonia tới Thessaly bằng việc gửi hỗ trợ về mặt quân sự cho các đồng minh của mình.[42] Mặc dù ông vẫn giữ lại Aigai như là một trung tâm về tôn giáo và nghi lễ, Archelaos I đã dời kinh đô của vương quốc về Pella, vào thời điểm đó nó được xác định vị trí bởi một hồ nước và một con sông nối với biển Aegea.[43] Ông đã nâng cao chất lượng đồng tiền của Macedonia bằng cách đúc những đồng tiền xu với một hàm lượng bạc cao hơn cũng như ban hành loại tiền xu bằng đồng riêng biệt.[44] Triều đình hoàng gia của ông đã thu hút sự có mặt của những học giả nổi tiếng như là nhà soạn kịch người Athen Euripides.[45] Khi Archelaos I bị ám sát, vương quốc của ông rơi vào sự hỗn loạn kéo dài từ năm 399 tới năm 393 TCN và gồm triều đại của bốn vị vua khác nhau: Orestes, con trai của Archelaos I; Aeropos II,người chú, nhiếp chính, và cũng là người đã sát hại Orestes; Pausanias, con trai của Aeropos II; và Amyntas II, ông ta đã cưới người con gái út của Archelaos I.[46] Chúng ta biết rất ít về thời kỳ hỗn loạn này; nó kết thúc khi Amyntas III (393-370 TCN), con trai của Arrhidaeos và cháu nội của Amyntas I, giết chết Pausanias và giành lấy ngai vàng của Macedonia.[47]

Một đồng stater bạc thuộc về Amyntas III của Macedon (393-370 TCN)

Amyntas III đã buộc phải bỏ chạy khỏi vương quốc của mình vào năm 393 hoặc 383 TCN (dựa theo các nguồn khác nhau) do một cuộc xâm lược ồ ạt của bộ tộc Dardani người Illyria dưới sự lãnh đạo của Bardylis.[note 4] Một người tiếm vị tên là Argaeos đã cai trị khi ông vắng mặt, nhưng cuối cùng Amyntas III đã quay trở về vương quốc của mình với sự trợ giúp từ các đồng minh Thessaly[48] Amyntas III cũng suýt chút nữa bị lật đổ bởi quân đội của thành phố Olynthos ở Chalcidice nhưng với sự trợ giúp từ Teleutias, em trai của vị vua Sparta Agesilaos II, người Macedonia đã buộc Olynthos phải đầu hàng và giải tán liên minh Chalcidice của họ vào năm 379 TCN.[49]

Alexandros II (370-368 TCN), con trai của Eurydice I và Amyntas III, đã kế vị cha của mình và ngay lập tức xâm lược Thessaly để gây chiến chống lại tagos (lãnh đạo quân sự tối cao của người Thessaly) Alexandros của Pherae, ông đã chiếm được thành phố Larissa.[50] Người Thessaly không muốn cả Alexandros II lẫn Alexandros của Pherae cai trị họ và đã kêu gọi sự trợ giúp từ Pelopidas của Thebes; ông ta đã thành công trong việc chiếm lại Larissa và tiếp nhận các con tin thuộc tầng lớp quý tộc bao gồm người em trai của Alexandros II và cũng là vị vua tương lai Philippos II (359–336 TCN) theo hiệp định hòa bình được thu xếp với Macedonia.[51] Alexandros sau đó bị người em rể Ptolemaios của Aloros ám sát, ông ta đã giữ vai trò như là một nhiếp chính độc đoán cho Perdiccas III (368-359 TCN), em trai của Alexandros II, tuy nhiên Perdicass III cuối cùng đã xử tử Ptolemaios khi đạt đến tuổi trưởng thành vào năm 365 TCN.[52] Khoảng thời gian còn lại của triều đại Perdiccas III cho thấy một sự ổn định về chính trị và sự hồi phục về kinh tế.[53] Tuy nhiên, một cuộc xâm lược của người Athen dưới sự lãnh đạo của Timotheos, con trai của Conon đã thành công trong việc chiếm được Methone và Pydna, một cuộc xâm lược khác của người Illyri dưới sự lãnh đạo của Bardylis đã khiến cho Perdiccas III cùng với 4,000 binh sĩ Macedonia tử trận.[54]

Sự trỗi dậy của Macedonia

Bên trái là bức tượng bán thân của Philippos II của Macedon (359-336 TCN) từ Thời kỳ Hy Lạp hóa nằm tại Ny Carlsberg Glyptotek. Bên phải là bức tượng bán thân khác của ông, một bản sao La Mã có niên đại thế kỷ thứ nhất từ tác phẩm gốc, ngày nay nằm tại bảo tàng Vatican.
Bản đồ của vương quốc Macedonia tại thời điểm Philippos II qua đời vào năm 336 TCN (xanh nhạt), với lãnh thổ ban đầu tồn tại từ năm 431 TCN (đường màu đỏ) và các quốc gia phụ thuộc (vàng).

Philippos II lên ngôi vua khi ông mới 24 tuổi vào năm 359 TCN.[55] Bằng tài ngoại giao khéo léo, ông đã có thể thuyết phục người Thraci dưới sự cai trị của Berisades ngừng ủng hộ cho Pausanias, một người tranh giành ngai vàng, và đối với người Athen là ngừng sự ủng hộ cho một người tiếm vị khác.[56] Ông đã thực hiện được những việc này bằng cách hối lộ người Thraci và đồng minh người Paeonia của họ và thiết lập một hiệp ước với Athens mà trong đó từ bỏ yêu sách của ông đối với Amphipolis.[57] Ông cũng đã có thể giảng hòa với người Illyri mà đã đe dọa biên giới của ông.[58]

Philippos II đã dành hoàn toàn những năm đầu tiên của mình để thay đổi quân đội Macedonia. Một sự cải cách về tổ chức, trang bị, huấn luyện của nó, bao gồm cả việc giới thiệu đội hình phalanx Macedonia được trang bị với những cây giáo dài (tức là sarissa), nó đã chứng tỏ sự thành công ngay lập tức khi được thử nghiệm chống lại các kẻ thù người Illyri và Paeonia của ông.[59] Những ghi chép lẫn lộn trong các nguồn cổ đại đã dẫn tới việc các học giả ngày nay tranh cãi về việc những vị tiên vương của Philippos II đã đóng góp đáng kể như thế nào cho những cải cách này và sự phát triển của những ý tưởng của ông đã chịu sự ảnh hưởng từ những năm tháng tuổi trẻ khi đang bị giam cầm ở Thebes như là một con tin chính trị trong thời kỳ quyền bá chủ của Thebes, đặc biệt là sau cuộc gặp với vị tướng Epaminondas.[60]

Người Macedonia theo chế độ một vợ một chồng theo truyền thống giống như những người Hy Lạp khác, thế nhưng Philippos II lại thực hiện chế độ đa thê và cưới 7 người vợ với chỉ duy nhất một người không có liên quan tới sự trung thành của các quý tộc thần dân của ông hoặc là các đồng minh mới.[note 5] Cuộc hôn nhân đầu tiên của ông là với Phila của Elimeia thuộc tầng lớp quý tộc ở Thượng Macedonia cũng như là công chúa người Illyria Audata để đảm bảo một liên minh hôn nhân.[61] Để thiết lập liên minh với Larissa ở Thessaly, ông đã kết hôn với một nữ quý tộc người Thessaly tên là Philinna vào năm 358 TCN, bà đã sinh cho ông một người con trai là Philippos III Arrhidaeos (323-317 TCN).[62] Vào năm 357 TCN, ông đã kết hôn với Olympias để đảm bảo một liên minh với Arybbas, Vua của Ipirosngười Molossoi. Cuộc hôn nhân này sẽ sinh ra một người con trai và sẽ cai trị với tên gọi là Alexandros III (được biết đến nhiều hơn với tên gọi là Alexandros Đại đế), ông ta tuyên bố là hậu duệ của Achilles huyền thoại thông qua huyết thống triều đại của mình từ Ipiros.[63] Chúng ta không rõ liệu rằng các vị vua của nhà Achaemenes Ba Tư có ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ đa thê của Philippos II hay không, mặc dù vậy vị tiên vương Amyntas III của ông đã có ba người con trai với một người vợ hai có thể tên là Gygaea: Archelauos, Arrhidaeos, và Menelaos.[64] Philippos II đã xử tử Archelaos vào năm 359 TCN, trong khi hai người em cùng cha khác mẹ với Philippos II bỏ chạy tới Olynthos, điều này sẽ đóng vai trò như là một casus belli cho cuộc chiến tranh Olynthos (349–348 TCN) chống lại liên minh Chalcidice của ông ta.[65]

Trong khi Athens đang bận rộn với cuộc Chiến tranh Đồng Minh (357–355 TCN), Philippos II đã tái chiếm lại Amphipolis từ tay họ vào năm 357 TCN và trong năm tiếp theo là Pydna và Potidaea, thành phố này đã được ông trao lại cho liên minh Chalcidice như đã hứa trong một hiệp ước.[66] Vào năm 356 TCN, ông đã chiếm Crenides, tái thành lập nó lại với tên gọi là Philippi, trong khi vị tướng Parmenion của ông đánh bại vị vua Illyria tên là Grabos của người Grabaei.[67] Trong cuộc vây hãm Methone vào năm 355–354 TCN, Philippos II mất mắt phải của mình từ một vết thương do tên bắn, nhưng ông đã thành công trong việc chiếm thành phố và đối xử với cư dân của nó một cách thân mật, không giống với người Potidaea đã bị bắt làm nô lệ.[note 6]

Philippos II và Macedonia sau đó đã tham gia vào Cuộc chiến tranh Thần Thánh (356–346 TCN). Nó bắt đầu khi Phocis chiếm giữ và cướp phá ngôi đền thờ Apollo tại Delphi thay vì nộp các khoản tiền phạt phải trả, điều này khiến cho Đại nghị liên minh tuyên chiến với Phocis và một cuộc nội chiến đã nổ ra giữa các thành viên của liên minh Thessaly hoặc là đứng về phía Phocis hoặc Thebes.[68] Chiến dịch ban đầu của Philippos II là chống lại Pherae ở Thessaly vào năm 353 TCN theo lời yêu cầu của Larissa đã kết thúc bằng hai thất bại tai hại trước vị tướng người Phocis là Onomarchos.[note 7] Philippos II sau đó đánh bại Onomarchos vào năm 352 TCN tại Trận cánh đồng Crocus, điều này đã dẫn đến việc Philippos II được bầu làm nhà lãnh đạo (archon) của liên minh Thessaly và cho phép ông có được một ghế trong hội đồng Đại nghị liên minh cùng với đó là một hôn nhân liên minh với Pherae thông qua việc cưới Nicesipolis, cháu gái vị bạo chúa Jason của Pherae.[69]

Philippos II đã sớm dính dáng tới đế quốc Achaemenes, đặc biệt là bằng việc trợ giúp các phó vương và lính đánh thuê nổi dậy chống lại chính quyền trung ương của vị vua nhà Achaemenes. Vị phó vương của Hellespontine PhrygiaArtabazos II, người tham gia vào cuộc nổi loạn chống lại Artaxerxes III, đã có thể ẩn náu như là một người bị lưu đày tại triều đình Macedonia từ năm 352 tới năm 342 TCN. Đi cùng với ông ta là gia đình và vị tướng đánh thuê Memnon của Rhodes.[70][71] Barsine, con gái của Artabazos, và là người vợ tương lai của Alexandros Đại đế đã lớn lên tại triều đình Macedonia.[71]

Sau chiến dịch chống lại vị vua người Thrace Cersobleptes, vào năm 349 TCN, Philippos II đã bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại liên minh Chalcidice, nó đã được tái lập vào năm 375 TCN sau một thời gian bị giải tán.[72] Bất chấp sự can thiệp của người Athen dưới quyền Charidemos,[73] Olynthos đã bị Philippos II chiếm vào năm 348 TCN, và cư dân của nó đã bị bán làm nô lệ, bao gồm cả một số công dân Athen.[74] Người Athen, đặc biệt là bằng một loạt bài diễn văn của Demosthenes mà được biết đến với tên gọi là Olynthiacs, đã không thành công trong việc thuyết phục các đồng minh của họ phản công và vào năm 346 TCN, họ đã ký kết một hiệp ước hòa bình với Macedonia được biết đến với tên gọi Hòa ước của Philocrates.[75] Hiệp ước này quy định rằng Athens sẽ từ bỏ yêu sách đối với các vùng lãnh thổ ven biển của Macedonia, khu vực Chalcidice, và Amphipolis đổi lại bằng việc giải phóng những người Athen bị bắt làm nô lệ cũng như đảm bảo rằng Philippos II sẽ không tấn công các khu định cư của người Athen ở khu vực Thracian Chersonese.[76] Trong khi đó, Phocis và Thermopylae đã bị quân đội Macedonia chiếm đóng, và những người đã cướp bóc ngôi đền Delphi bị xử tử, Philippos II đã được trao tặng hai ghế của người Phocis trong hội đồng Đại Nghị liên minh và vị trí người chủ trì toàn bộ thế vận hội Pythia.[77] Athens ban đầu phản đối quyền thành viên của ông trong hội đồng và từ chối tham dự thế vận hội để phản đối, nhưng cuối cùng họ đã chấp nhận những điều này, có lẽ sau sự thuyết phục đáng kể của Demosthenes trong bài diễn thuyết Về Hòa bình của ông ta.[78]

Bên trái là một Niketerion (huy chương chiến thắng) mang hình ảnh nổi của vua Philippos II của Macedon, thế kỷ thứ 3 CN, có thể được đúc dưới triều đại của hoàng đế La Mã Alexander Severus. Bên phải là tàn tích của ngôi đền Philippeion tại Olympia, Hy Lạp, được xây dựng bởi Philippos II của Macedon để kỷ niệm chiến thắng của ông sau Trận Chaeronea vào năm 338 TCN.[79]

Trong vài năm tiếp theo, Philippos II đã bận rộn với việc tổ chức lại hệ thống chính quyền ở Thessaly, ông còn tiến hành chiến dịch chống lại vị vua người Illyri là Pleuratos I và lật đổ Arybbas ở Ipiros để thay thế bằng người em vợ là Alexandros I (thông qua cuộc hôn nhân của Philippos II với Olympias), ông cũng đã đánh bại Cersebleptes ở Thrace. Điều này cho phép ông mở rộng quyền kiểm soát của người Macedonia đối với Hellespont nhằm phục vụ cho dự định sẽ mở một cuộc xâm lược vào khu vực Anatolia của nhà Achaemenes sau này.[80] Vào năm 342 TCN, Philippos II đã chinh phục một thành phố Thrace ở khu vực ngày nay là Bulgaria và đổi tên nó là Philippopolis (ngày nay là Plovdiv).[81] Chiến tranh đã nổ ra với Athens vào năm 340 TCN trong lúc Philippos II đang tham gia vào hai cuộc vây hãm không thành công cuối cùng đối với PerinthusByzantion, tiếp theo sau đó là một chiến dịch thành công chống lại người Scythia dọc theo sông Danube và sự tham gia của Macedonia vào cuộc Chiến tranh Thần Thánh lần thứ Tư chống lại Amphissa vào năm 339 TCN.[82] Thebes đã đánh đuổi một đơn vị đồn trú người Macedonia khỏi Nicaea (gần Thermopylae), điều này dã dẫn đến việc Thebes liên kết với Athens, Megara, Corinth, Achaea, và Euboea trong một cuộc chạm trán cuối cùng chống lại Macedonia tại Trận Chaeronea vào năm 338 TCN.[83] Sau chiến thắng của người Macedonia tại đó, Philippos II đã thiết lập một chế độ đầu xỏ ở Thebes, nhưng vẫn khoan dung đối với Athens, với hy vọng sử dụng hải quân của họ trong một kế hoạch xâm lược nhằm vào đế quốc Achaemenes.[84] Sau đó ông chịu trách nhiệm chính cho việc thành lập liên minh Corinth mà bao gồm các thành bang Hy Lạp chủ chốt ngoại trừ Sparta. Bất chấp việc vương quốc Macedonia không có mặt chính thức trong liên minh này, vào năm 337 TCN, Philippos II đã được bầu làm nhà lãnh đạo (hegemon) hội đồng của nó (synedrion) và tổng tư lệnh (strategos autokrator) của chiến dịch sắp tới nhằm xâm lược đế quốc Achaemenes.[85] Kế hoạch của Philippos là để trừng phạt người Ba Tư vì sự đau khổ gây ra cho người Hy Lạp và để giải phóng các thành bang Hy Lạp ở Tiểu Á[86] cũng có thể là nỗi sợ hãi của toàn Hy Lạp về một cuộc xâm lược Hy Lạp khác của người Ba Tư, đã góp phần vào quyết định xâm lược đế quốc Achaemenes của ông.[87] Người Ba Tư đã trợ giúp cho Perinthus và Byzantion vào năm 341–340 TCN, chiến lược của Macedonia nêu rõ là cần chiếm được Thrace và khu vực biển Aegea chống lại sự xâm lấn ngày càng tăng của nhà Achaemenes, khi mà vị vua Ba Tư Artaxerxes III tiến hành củng cố thêm sự kiểm soát của mình đối với các tổng trấn ở miền Tây Anatolia.[88] Khu vực này, mang tới sự giàu có và nhiều nguồn tài nguyên giá trị hơn khu vực Balkans, nó cũng được vị vua của Macedonia khao khát vì tiềm năng kinh tế vô hạn của mình.[89]

Khi Philippos II cưới Cleopatra Eurydice, cháu gái của vị tướng Attalos, và nói về việc sinh ra những người kế vị tiềm năng mới tại bữa tiệc cưới, điều này đã khiến cho người con trai của Philippos II là Alexandros, một người từng tham gia trận Chaeronea, và mẹ của ông ta là Olympias nổi giận.[90] Họ đã cùng bỏ về Ipiros trước khi Alexandros được triệu về Pella bởi Philippos II.[90] Khi Philippos II sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa người con trai của ông là Arrhidaeos với Ada của Caria, con gái của Pixodaros, vị tổng trấn Ba Tư của Caria, Alexandros đã can thiệp và thay vào đó ông đề nghị cưới Ada cho mình. Philippos II sau đó đã hủy bỏ hoàn toàn đám cưới và lưu đày các cố vấn của Alexandros là Ptolemaios, Nearchos, và Harpalos.[91] Để hòa giải với Olympias, Philippos II đã gả con gái của họ là Cleopatra cho người em trai của Olympias (và là chú của Cleopatra) là Alexandros I của Ipiros, nhưng Philippos II đã bị người cận vệ của mình là Pausanias của Orestis ám sát ngay trong bữa tiệc đám cưới của họ và Alexandros đã kế vị ông vào năm 336 TCN.[92]

Đế quốc

Bên trái, Tượng bán thân của Alexandros Đại đế của nhà điêu khắc Athen Leochares, 330 TCN, bảo tàng Acropolis, Athens. Bên phải, tượng bán thân của Alexandros Đại đế, đây là một bản sao của người La Mã có niên đại thuộc kỷ nguyên đế quốc (thế kỷ 1 hoặc 2 CN) từ bức tượng đồng gốc được tạo ra bởi nhà điêu khắc Hy Lạp Lysippos, Louvre, Paris.
Đế quốc của Alexandros và lộ trình của ông

Các học giả ngày nay đã tranh luận về vai trò có thể của Alexandros III "Đại đế" và người mẹ của ông là Olympias trong vụ ám sát Philippos II, lưu ý từ lựa chọn của Philippos trong việc loại bỏ Alexandros khỏi kế hoạch xâm chiếm châu Á của ông ta, thay vào đó lựa chọn ông giữ vai trò là nhiếp chính của Hy Lạp và phó hegemon của Liên minh Corinth, và tiềm năng của việc sinh ra một người kế vị nam khác giữa Philippos II và người vợ mới của ông ta, Cleopatra Eurydice.[note 8] Alexandros III (336-323 TCN) đã lập tức được tuyên bố làm vua bởi một hội đồng của quân đội và các quý tộc chủ chốt, đứng đầu trong số họ là Antipatros và Parmenion.[93] Vào thời điểm kết thúc triều đại và sự nghiệp quân sự của mình vào năm 323 TCN, Alexandros sẽ cai trị một đế quốc bao gồm khu vực lục địa Hy Lạp, Tiểu Á, Cận Đông, Ai Cập cổ đại, Mesopotamia, Persia, và phần lớn khu vực TrungNam Á (tức khu vực Pakistan ngày nay).[94] Một trong những việc làm đầu tiên của ông đó là chôn cất cha của mình tại Aigai.[95] Các thành viên của liên minh Corinth đã nổi dậy khi nghe tin về cái chết của Philippos II, nhưng sớm bị dẹp yên bằng vũ lực bên cạnh việc ngoại giao thuyết phục, đã bầu chọn Alexandros là hegemon của liên minh để thực hiện kế hoạch xâm lược Ba Tư.[96]

Vào năm 335 TCN, Alexandros đã tiến đánh bộ lạc người Thrace Triballi ở khu vực dãy núi Haemus và dọc theo sông Danube, ông đã buộc họ phải đầu hàng trên đảo Peuce.[97] Ngay sau đó, vị vua người Illyria là Cleitos của người Dardani đã đe dọa tấn công Macedonia, nhưng Alexandros đã nắm thế chủ động và vây hãm người Dardani tại Pelion (ngày nay thuộc Albania).[98] Khi Thebes một lần nữa nổi loạn tách khỏi liên minh Corinth và đang vây hãm đội quân đồn trú Macedonia ở Cadmea, Alexandros đã rời mặt trận Illyria và hành quân tiến về Thebes, tại đây ông đã vây hãm thành phố này.[99] Sau khi phá vỡ các bức tường thành, quân đội của Alexandros đã tàn sát 6,000 người Thebes, bắt 30,000 cư dân làm tù binh, và thiêu trụi hoàn toàn thành phố như là một lời cảnh cáo mà khiến cho toàn bộ các thành bang Hy Lạp khác ngoại trừ Sparta không dám thách thức Alexandros thêm một lần nào nữa.[100]

Trong suốt sự nghiệp quân sự của mình, Alexandros đã giành chiến thắng tất cả các trận đánh do đích thân ông chỉ huy.[101] Chiến thắng đầu tiên của ông trước người Ba Tư ở Tiểu Á là Trận Granicus vào năm 334 TCN, ông đã sử dụng một đội kỵ binh nhỏ như là một mồi nhử để cho phép lực lượng bộ binh của mình vượt qua sông tiếp nối bằng một cuộc đột kích của kỵ binh từ lực lượng chiến hữu kỵ binh của ông.[102] Alexandros đã chỉ huy cuộc đột kích bằng kỵ binh tại trận Issus vào năm 333 TCN, buộc vị vua Ba Tư Darius III và đạo quân của ông ta phải tháo chạy.[102] Bất chấp việc có quân lực áp đảo, Darius III lại một lần nữa bỏ chạy trong trận Gaugamela vào năm 331 TCN.[102] Vị vua Ba Tư sau đó bị bắt và hành quyết bởi chính vị satrap của Bactria và cũng là người họ hàng của ông ta, Bessus, vào năm 330 TCN. Vị vua của Macedonia sau đó đã săn đuổi và hành quyết Bessus ở nơi mà ngày nay là Afghanistan, chiếm luôn vùng đất Sogdia trong quá trình này.[103] Tại Trận Hydaspes vào năm 326 TCN, (ngày nay ở Punjab), khi những con voi chiến của vua Porus xứ Pauravas đe dọa các binh sĩ của Alexandros, ông đã ra lệnh cho họ tách rời hàng ngũ và vây quanh những con voi rồi tấn công những viên quản tượng của chúng bằng những ngọn giáo sarissa.[104] Khi những binh sĩ người Macedonia đe dọa binh biến vào năm 324 TCN tại Opis, Babylonia (gần Baghdad, Iraq), Alexandros đã phong các tước hiệu quân đội của người Macedonia cùng với những trọng trách quan trọng hơn cho các tướng lĩnh Ba Tư và đơn vị của họ để thay thế, điều này buộc binh sĩ của ông phải thỉnh cầu sự tha thứ tại một buổi tiệc hòa giải được tổ chức giữa người Ba Tư và Macedonia.[105]

Bức Tranh khảm săn hưu đực có niên đại khoảng năm  300 TCN, nó nằm ở Pella; nhân vật bên phải có thể là Alexandros Đại đế còn nhân vật bên trái cầm một chiếc rìu hai lưỡi (được liên tưởng với Hephaistos) có lẽ là Hephaestion, một trong những chiến hữu trung thành của Alexandros.

Alexandros có lẽ đã hủy hoại sự cai trị của mình bằng việc thể hiện các dấu hiệu của chứng hoang tưởng tự đại.[106] Trong khi đang sử dụng các hành động tuyên truyền hiệu quả chẳng hạn như là việc chặt đứt nút thắt Gordium, ông cũng cố gắng thể hiện bản thân mình như là một vị thần sống và một người con trai của Zeus sau chuyến thăm của ông tới nhà tiên tri tại Siwah trong sa mạc Libya (ở Ai Cập ngày nay) vào năm 331 TCN.[107] Nỗ lực của ông nhằm bắt mọi người phải phủ phục trước ông ở Bactra vào năm 327 TCN bắt chước theo nghi lễ proskynesis của các vị vua Ba Tư đã không được các thần dân Macedonia và Hy Lạp của ông chấp nhận vì sự báng bổ tôn giáo của nó sau khi vị sử quan của ông Callisthenes từ chối thực hiện lễ nghi này.[106] Khi Alexandros ra lệnh sát hại Parmenion tại Ecbatana (gần Hamadan ngày nay, Iran) vào năm 330 TCN, Errington đã cho rằng đây là "dấu hiệu của hố sâu ngăn cách ngày càng lớn giữa các lợi ích của nhà vua với của vương quốc và người dân của ông".[108] Sự kiện ông sát hại Cleitos Đen vào năm 328 TCN được miêu tả là "đầy căm thù và hấp tấp" bởi Dawn L. Gilley và Ian Worthington.[109] Tiếp tục chính sách đa thê của cha mình, Alexandros đã khuyến khích mọi người kết hôn với những người phụ nữ châu Á, ví dụ như ông đã cưới Roxana, một công chúa người Sogdia của Bactria.[110] Tiếp sau đó ông đã cưới Stateira II, người con gái đầu của Darius III, và Parysatis II, người con gái út của Artaxerxes III, tại lễ cưới Susa vào năm 324 TCN.[111]

Trong khi đó, ở Hy Lạp, vị vua Sparta Agis III đã cố gắng lãnh đạo một cuộc nổi dậy của người Hy Lạp chống lại Macedonia.[112] Ông ta đã bị đánh bại vào năm 331 TCN tại Trận Megalopolis bởi Antipatros, người đang giữ vai trò là nhiếp chính của Macedonia và phó hegemon của liên minh Corinth thay cho Alexandros.[note 9] Trước khi Antipatros bắt đầu chiến dịch của mình ở Peloponnese, ông ta đã thuyết phục viên tổng đốc của Thrace tên là Memnon không nổi loạn bằng biện pháp ngoại giao.[113] Antipatros đã trì hoãn việc trừng phạt Sparta và thay vào đó là để việc này cho Liên minh Corinth đứng đầu bởi Alexandros, ông cuối cùng đã tha thứ cho người Sparta với điều kiện là họ giao nộp 50 quý tộc làm con tin.[114] Quyền lãnh đạo của Antipatros có phần không được lòng người dân ở Hy Lạp do ông ta ủng hộ (có lẽ theo lệnh của Alexandros) những kẻ bất mãn bị lưu đày và đồn trú các thành phố với các đội quân Macedonia, tuy vậy vào năm 330 TCN, Alexandros đã tuyên bố rằng những chính thể chuyên chế được thiết lập ở Hy Lạp sẽ bị bãi bỏ và quyền tự do của người Hy Lạp sẽ được khôi phục.[115]

Vương quốc của các diadochi khoảng năm  301 TCN, sau Trận Ipsus
  Vương quốc của Ptolemaios I Soter
  Vương quốc của Kassandros
  Vương quốc của Lysimachos
  Vương quốc của Seleukos I Nikator
  Ipiros
OtherMột đồng stater bằng vàng của Philip III Arrhidaeus mang hình ảnh của nữ thần Athena (trái) và Nike (phải)

Khi Alexandros Đại đế qua đờiBabylon vào năm 323 TCN, người mẹ của ông Olympias đã ngay lập tức buộc tội Antipatros và phe của ông ta đã đầu độc ông, mặc dù vậy không có bằng chứng để chứng minh điều này.[116] Với việc không có ai được phong làm hoàng thái tử, các chỉ huy quân đội Macedonia đã chia thành hai phe, một bên tuyên bố rằng người anh trai cùng cha khác mẹ với Alexandros là Philippos III Arrhidaeos (323-317 TCN) là vua và một bên là đứng về phía người con trai sơ sinh của Alexandros và Roxana, Alexandros IV (323-309 TCN).[117] Ngoại trừ người Euboea và Boeotia, người Hy Lạp đã ngay lập tức nổi dậy tiến hành một cuộc khởi nghĩa chống lại Antipatros mà được biết đến với tên gọi cuộc chiến tranh Lamia (323–322 TCN).[118] Khi Antipatros bị đánh bại trong Trận Thermopylae vào năm 323 TCN, ông đã bỏ chạy tới Lamia và bị vị tướng người Athen là Leosthenes vây hãm tại nơi này. Một đạo quân Macedonia dưới sự chỉ huy của Leonnatos sau đó đã giải vây cho Antipatros.[119] Antipatros đã dẹp được cuộc nổi loạn nhưng cái chết của ông vào năm 319 TCN đã để lại một khoảng trống quyền lực và do đó hai vị vua Macedonia được dựng lên đã trở thành những con tốt thí trong một cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các diadochi, những vị tướng lĩnh cũ trong quân đội của Alexandros.[120]

Một hội đồng của quân đội đã được triệu tập ở Babylon ngay sau cái chết của Alexandros, họ đã tuyên bố Philippos III là vua và viên chiliarch Perdiccas là nhiếp chính của ông.[121] Antipatros, Antigonos Monophthalmos, Crateros, và Ptolemaios đã thiết lập một liên minh để chống lại Perdiccas trong một cuộc nội chiến được khởi đầu bằng việc Ptolemaios chiếm đoạt cỗ xe tang của Alexandros Đại đế.[122] Perdiccas đã bị chính các sĩ quan của mình ám sát vào năm 321 TCN trong một chiến dịch thất bại ở Ai Cập chống lại Ptolemaios, cuộc hành quân dọc theo sông Nile của ông đã khiến cho 2,000 binh sĩ của ông bị chết đuối.[123] Mặc dù Eumenes của Cardia đã thành công trong việc giết chết Crateros trên chiến trường, điều này ít có ảnh hưởng đến cuộc phân chia TriparadisusSyria vào năm 321 TCN, tại đây phe liên minh chiến thắng đã giải quyết vấn đề về một chế độ nhiếp chính mới và những quyền lợi về lãnh thổ.[124] Antipatros đã được bổ nhiệm làm nhiếp chính cho cả hai vị vua. Trước khi Antipatros qua đời vào năm 319 TCN, ông ta đã bổ nhiệm người bề tôi trung thành với nhà Argead là Polyperchon làm người kế tục mình, bỏ qua người con trai của ông ta là Kassandros và bỏ qua quyền được chọn một nhiếp chính mới của nhà vua (bởi vì Philippos III được cho là bất ổn về mặt tâm thần)[125]

Thiết lập một liên minh với Ptolemaios, Antigonos, và Lysimachos, Kassandros đã lệnh cho tướng Nicanor chiếm pháo đài Munichia ở thị trấn cảng Piraeus của Athens bất chấp sắc lệnh của Polyperchon rằng các thành bang Hy Lạp sẽ không còn các đơn vị đồn trú Macedonia, điều này đã khơi mào cho cuộc chiến tranh Diadochi lần thứ Hai (319–315 TCN).[126] Sau một chuỗi các thất bại quân sự của Polyperchon, vào năm 317 TCN, Philippos III, thông qua người vợ mưu mô của mình là Eurydice II của Macedonia, đã chính thức phong Kassandros làm nhiếp chính thay cho ông ta.[127] Sau đó, Polyperchon đã tìm kiếm sự giúp đỡ từ Olympias ở Ipiros.[127] Một liên quân gồm người Ipirot, Aetolia, và quân của Polyperchon đã xâm lược Macedonia và buộc quân đội của Philippos III và Eurydice phải đầu hàng, điều này đã cho phép Olympias xử tử vị vua này và buộc hoàng hậu của ông phải tự tử.[128] Olympias sau đó đã xử tử Nicanor cùng với nhiều quý tộc Macedonia khác, nhưng vào mùa xuân năm 316 TCN, Kassandros đã đánh bại lực lượng của bà, bắt giữ bà, và đưa bà ra xét xử với tội giết người rồi sau đó kết án tử hình bà.[129]

Kassandros đã cưới người con gái của Philippos II là Thessalonike và đã mở rộng sự kiểm soát của Macedonia cho tới tận Epidamnos ở Illyria. Tới năm 313 TCN, vị vua người Illyria là Glaukias của Taulantii đã tái chiếm lại thành phố này.[130] Vào năm 316 TCN, Antigonos đã đoạt được những vùng lãnh thổ của Eumenes và thành công trong việc đánh đuổi Seleukos I Nikator khỏi Babylon, điều này đã khiến cho Kassandros, Ptolemaios, và Lysimachos gửi một tối hậu thư chung cho Antigonos vào năm 315 TCN, yêu cầu ông ta phải giao nộp những vùng lãnh thổ khác ở châu Á.[9] Antigonos đã ngay lập tức liên minh với Polyperchon, lúc này đang đóng quân ở Corinth, và gửi một tối hậu thư của riêng ông cho Kassandros, buộc tội ông ta tội giết người vì đã xử tử Olympias và yêu cầu ông ta giao nộp gia đình hoàng gia, vua Alexandros IV cùng thái hậu Roxana.[131] Cuộc xung đột diễn ra tiếp sau đó đã kéo dài cho tới mùa đông năm 312/311 TCN, khi mà một thỏa thuận hòa bình mới đã công nhận Kassandros là tướng quân của châu Âu, Antigonos là "số một ở Châu Á", Ptolemaios là tướng quân của Ai Cập, và Lysimachos là tướng quân của Thrace.[132] Kassandros đã xử tử Alexandros IV và Roxana vào mùa đông năm 311/310 TCN, và tới năm 306–305 TCN, các diadochi đã tự xưng là vua ở lãnh thổ của mình.[133]

Kỉ nguyên Hy Lạp hóa

Các bức tượng bán thân của Pyrros của Ipiros (trên cùng bên trái), Demetrios I của Macedonia (trên cùng bên phải), Seleukos I Nikator (dưới cùng bên trái), và Lysimachos (dưới cùng bên phải), đây là những bản sao thời La Mã của các tác phẩm gốc thuộc thời kỳ Hy Lạp hóa đến từ Trang viên giấy cói tại Herculaneum, Bảo tàng khảo cổ học quốc gia Naples

Sự khởi đầu của Hy Lạp thời kỳ Hy Lạp hóa được xác định bởi cuộc xung đột giữa nhà Antipatros, đầu tiên được lãnh đạo bởi Kassandros (trị vì từ 305-297 TCN), con trai của Antipatros, và nhà Antigonos, dưới sự lãnh đạo của vị tướng người Macedonia là Antigonos I Monophthalmos (trị vì từ 306-301 TCN) và người con trai của ông ta, vị vua tương lai Demetrios I (trị vì từ 294-288 TCN). Kassandros đã vây hãm Athens vào năm 303 TCN, nhưng khi Demetrios xâm lược Boeotia để nhằm cắt đứt con đường rút lui của ông, Kassandros đã buộc phải triệt thoái về Macedonia.[134] Khi Antigonos và Demetrios cố gắng tái lập lại Liên minh Hy Lạp của Philippos II với bản thân họ là hai hegemon, một liên minh được tái lập lại của Kassandros, Ptolemaios I Soter (trị vì từ 305-283 TCN) của nhà Ptolemaios ở Ai Cập, Seleukos I Nikator (trị vì từ 305-281 TCN) của đế quốc Seleukos, và Lysimachos (trị vì từ 306-281 TCN), Vua của Thrace, đã đánh bại nhà Antigonos tại trận Ipsus vào năm 301 TCN, Antigonos đã tử trận còn Demetrios đã buộc phải tháo chạy.[135]

Kassandros qua đời vào năm 297 TCN, và người con ốm yếu của ông là Philippos IV cũng qua đời ngay trong năm đó, những người con trai khác của Kassandros là Alexandros V của Macedonia (trị vì từ 297-294 TCN) và Antipatros II của Macedonia (trị vì từ 297-294 TCN) đã kế vị cùng với người mẹ của họ là Thessalonike của Macedonia giữ vai trò là nhiếp chính.[136] Trong lúc Demetrios giao chiến với lực lượng của nhà Antipatros ở Hy Lạp, Antipatros II đã giết chết người mẹ của mình để giành quyền lực.[136] Người em trai tuyệt vọng của ông, Alexandros V sau đó đã cầu xin sự trợ giúp tới từ Pyrros của Ipiros (trị vì từ 297-272 TCN),[136] ông ta đã từng sát cánh bên cạnh Demetrios tại trận Ipsus nhưng sau đó đã được gửi tới Ai Cập làm con tin như là một phần của thỏa thuận giữa Demetrios và Ptolemaios I.[137] Để đổi lại cho việc đánh bại lực lượng của Antipatros II và buộc ông ta phải chạy trốn tới triều đình của Lysimachos ở Thrace, Pyrros đã nhận được phần thưởng đó là phần cực tây của vương quốc Macedonia.[138] Demetrios sau đó đã ám sát người cháu họ Alexandros V của ông ta rồi tự tuyên bố là vua của Macedonia, thế nhưng thần dân lại phản đối sự xa lánh, độc đoán theo kiểu phương đông của ông ta.[136]

Chiến tranh đã sớm nổ ra giữa Pyrros và Demetrios vào năm 290 TCN khi Lanassa, vợ của Pyrros, con gái của Agathocles của Syracuse, bỏ ông để lấy Demetrios và đem đến cho ông ta hòn đảo Corcyra vốn là của hồi môn của bà.[139] Cuộc chiến kéo dài đến năm 288 TCN, khi Demetrios đánh mất sự ủng hộ từ người Macedonia và bỏ trốn khỏi vương quốc. Macedonia sau đó được phân chia giữa Pyrros và Lysimachos, với việc Pyrros chiếm phần phía Tây Macedonia còn Lysimachos là phần phía đông Macedonia.[139] Đến năm 286 TCN, Lysimachos đã đánh đuổi Pyrros và quân đội của ông ta ra khỏi Macedonia.[note 10] Năm 282 TCN, một cuộc chiến tranh mới đã bùng nổ giữa Seleukos I và Lysimachos; Lysimachos sau đó đã tử trận trong trận Corupedion và điều này cho phép Seleukos I nắm quyền kiểm soát Thrace và Macedonia.[140] Nhưng Seleukos I lại bị ám sát ngay sau đó vào năm 281 TCN bởi viên sĩ quan của mình là Ptolemaios Keraunos, con trai của Ptolemaios I và cháu nội của Antipatros, ông ta tiếp đó tự xưng là vua của Macedonia trước khi bị người Celt giết chết trên chiến trường trong cuộc xâm lược Hy Lạp của họ.[141] Quân đội Macedonia đã tôn vị tướng Sosthenes của Macedonia lên làm vua, mặc dù vậy dường như ông đã từ chối tước hiệu này.[142] Sau khi đánh bại vị thủ lĩnh người GaulBolgios và đánh đuổi đội quân cướp bóc của Brennus, Sosthenes đã qua đời và lại khiến cho Macedonia rơi vào tình trạng hỗn loạn.[143] Những người Gaul xâm lược đã tàn phá Macedonia cho tới khi Antigonos II Gonatas, con trai của Demetrios, đánh bại họ ở Thrace tại trận Lysimachia vào năm 277 TCN và sau đó ông đã được tuyên bố là vua của Macedonia.[144]

Năm 280 TCN, Pyrros đã phát động một chiến dịch ở Magna Graecia (tức là khu vực Nam Ý) chống lại Cộng hòa La Mã, nó được biết đến với tên gọi cuộc chiến tranh Pyrros, tiếp sau là cuộc xâm lược Sicily của ông.[145] Ptolemaios Keraunos đã bảo đảm ngai vàng Macedonia của mình bằng cách giao cho Pyrros 5000 binh sĩ và 20 con voi chiến cho nỗ lực này của ông ta.[137] Pyrros đã quay trở về Ipiros vào năm 275 TCN sau khi thất bại hoàn toàn trong cả hai chiến dịch, điều này đã góp phần cho sự trỗi dậy của Rome bởi vì các thành bang Hy Lạp ở miền Nam Ý chẳng hạn như Tarentum lúc này đã trở thành đồng minh La Mã.[145] Pyrros đã xâm lược Macedonia vào năm 274 TCN, ông đã đánh bại đạo quân chủ yếu là lính đánh thuê của Antigonos II tại Trận Aous và đánh đuổi ông ta khỏi Macedonia, buộc ông ta phải tìm kiếm nơi ẩn náu cùng hạm đội hải quân của mình ở khu vực biển Aegean.[146]

Tranh vẽ về các loại vũ khí và áo giáp thuộc thời kỳ Hy Lạp hóa đến từ một ngôi mộ ở Mieza cổ đại (ngày nay là Lefkadia), Imathia, miền Trung Macedonia, Hy Lạp, Thế kỷ 2 TCN

Pyrros đã đánh mất phần lớn sự ủng hộ của mình từ người Macedonia vào năm 273 TCN khi những lính đánh thuê ngỗ ngược người Gaul của ông cướp phá khu nghĩa trang hoàng gia ở Aigai.[147] Pyrros đã truy kích Antigonos II ở Peloponnese, tuy nhiên cuối cùng Antigonos II đã có thể giành lại được Macedonia.[148] Pyrros sau đó tử trận khi đang vây hãm Argos vào năm 272 TCN, điều này cho phép Antigonos II giành lại phần còn lại của Hy Lạp.[149] Ông sau đó đã khôi phục lại các ngôi mộ của triều đại Argead ở Aigai và xáp nhập vương quốc Paeonia.[150]

Liên minh Aetolia đã ngăn trở sự kiểm soát của Antigonos II đối với khu vực miền Trung Hy Lạp, và sự thành lập của liên minh Achaea vào năm 251 TCN đã đẩy lùi các lực lượng của người Macedonia ra khỏi phần lớn bán đảo Peloponnese và đôi lúc đã xáp nhập cả Athens và Sparta.[151] Khi đế quốc Seleukos đứng về phía nhà Antigonos của Macedonia chống lại nhà Ptolemaios của Ai Cập trong các cuộc chiến tranh Syria, hải quân của nhà Ptolemaios đã gây gián đoạn nghiêm trọng những nỗ lực của Antigonos II nhằm kiểm soát khu vực lục địa Hy Lạp.[152] Với sự trợ giúp từ hải quân của nhà Ptolemaios, vị chính trị gia người Athen là Chremonides đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại uy quyền của người Macedonia mà được biết đến với tên gọi là cuộc chiến tranh Chremonides (267–261 TCN).[153] Vào năm 265 TCN, Athens đã bị bao vây và vây hãm bởi lực lượng của Antigonos II, và một hạm đội của nhà Ptolemaios đã bị đánh bại trong Trận Cos. Athens cuối cùng đã đầu hàng vào năm 261 TCN.[154] Sau khi Macedonia thiết lập một liên minh với vị vua nhà Seleukos là Antiochos II, một thỏa thuận hòa bình giữa Antigonos II và Ptolemaios II Philadelphos của Ai Cập cuối cùng đã được ký kết vào năm 255 TCN.[155]

Ngôi đền Apollo tại Corinth, nó được xây dựng vào khoảng năm  540 TCN, cùng với Acrocorinth (tức là khu vực acropolis của Corinth mà đã từng chứa một một đội quân đồn trú người Macedonia)[156]

Năm 251 TCN, Aratos của Sicyon đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại Antigonos II, và vào năm 250 TCN, Ptolemaios II đã tuyên bố ủng hộ vị vua tự xưng Alexandros của Corinth.[157] Mặc dù Alexandros đã qua đời vào năm 246 TCN và Antigonos đã có thể giành được một chiến thắng hải quân trước nhà Ptolemaios tại Andros, người Macedonia đã để mất Acrocorinth vào tay lực lượng của Aratos vào năm 243 TCN, tiếp theo sau đó Corinth đã được kết nạp vào liên minh Achaea.[158] Antigonos II đã giảng hòa với liên minh Achaea vào năm 240 TCN, nhượng lại những vùng lãnh thổ mà ông đã mất ở Hy Lạp.[159] Antigonos II qua đời vào năm 239 TCN và đã được kế vị bởi người con trai của ông là Demetrios II của Macedonia (trị vì từ 239-229 TCN). Nhằm tìm kiếm một liên minh với Macedonia để chống lại người Aetolia, thái hậu và nhiếp chính của Ipiros, Olympias II, đã đề nghị gả người con gái của bà là Phthia của Macedonia cho Demetrios II. Demetrios II đã chấp nhận lời đề nghị của bà, nhưng ông lại gây tổn hại đến mối quan hệ với nhà Seleukos bằng cách ly dị Stratonike của Macedonia.[160] Mặc dù người Aetolia đã thiết lập một liên minh với liên minh Achaea như là một hệ quả của điều này, Demetrios II đã có thể xâm lược Boeotia và chiếm nó từ tay của người Aetolia vào năm 236 TCN.[156]

Liên minh Achaea đã thành công trong việc chiếm Megalopolis vào năm 235 TCN, và vào giai đoạn cuối triều đại của Demetrios II thì người Macedonia đã để mất gần như toàn bộ bán đảo Peloponnese ngoại trừ Argos.[161] Demetrios II còn mất đi một đồng minh ở Ipiros khi mà chế độ quân chủ bị lật đổ trong một cuộc cách mạng cộng hòa.[162] Demetrios II đã tranh thủ sự trợ giúp của vị vua IllyriaAgron để bảo vệ Acarnania chống lại người Aetolia, và vào năm 229 TCN, họ đã thành công trong việc đánh bại hạm đội liên hợp của người Aetolia và liên minh Achaea tại trận Paxos.[162] Một vị vua người Illyria khác, Longarus của vương quốc Dardania, đã xâm lược Macedonia và đánh bại một đạo quân của Demetrios II ngay trước khi ông qua đời vào năm 229 TCN.[163] Mặc dù người con trai còn nhỏ tuổi của ông là Philippos đã ngay lập tức kế vị ngai vàng, nhiếp chính của ông ta Antigonos III Doson (trị vì từ 229-221 TCN) vốn là người cháu họ của Antigonos II, đã được quân đội tôn lên làm vua và Philippos là người thừa kế của ông sau khi Antigonos giành được một loạt các chiến thắng quân sự trước người Illyria ở phía Bắc và người Aetolia ở Thessaly.[164]

Một đồng tetradrachm được đúc dưới triều đại của Antigonos III Doson (trị vì 229-221  TCN), có thể tại Amphipolis, ở trên mặt trước là chân dung của thần Poseidon và ở mặt sau là một cảnh miêu tả thần Apollo ngồi trên mũi của một con thuyền

Aratos đã phái một sứ thần tới chỗ Antigonos III vào năm 226 TCN để thiết lập một liên minh vốn không ai ngờ tới vào thời điểm đó khi mà vị vua cải cách Cleomenes III của Sparta đang đe dọa phần còn lại của Hy Lạp trong cuộc chiến tranh Cleomenes (229–222 TCN).[165] Để đổi lại cho sự trợ giúp về mặt quân sự, Antigonos III yêu cầu Corinth phải được trao trả lại cho người Macedonia, Aratos cuối cùng đã đồng ý vào năm 225 TCN.[166] Năm 224 TCN, quân đội của Antigonos III đã chiếm Arcadia từ tay người Sparta. Sau khi thiết lập một liên minh Hy Lạp theo cùng cách thức giống như liên minh Corinth của Philippos II, ông đã thành công trong việc đánh bại người Sparta tại trận Sellasia vào năm 222 TCN.[167] Đây là lần đầu tiên trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Sparta đã bị chiếm đóng bởi một thế lực ngoại bang, điều này đã khôi phục lại vị thế của Macedonia như là cường quốc số một ở Hy Lạp.[168] Antigonos đã qua đời một năm sau đó có lẽ là do bệnh lao, ông đã để lại một vương quốc Hy Lạp hóa hùng mạnh cho người kế vị Philippos V.[169]

Philippos V của Macedonia (trị vì từ 221-179 TCN) ngay lập tức đã đối mặt với những thách thức đối với quyền lực của ông đến từ bộ lạc người Illyria là người Dardani và liên minh Aetolia.[170] Philippos V và đồng minh của ông đã thành công trong việc chống lại người Aetolia và đồng minh của họ trong cuộc Chiến tranh Đồng Minh (220–217 TCN), tuy nhiên ông đã giảng hòa với người Aetolia ngay khi nghe tin về những cuộc tấn công của người Dardani ở phía Bắc và chiến thắng của người Carthage trước người La Mã tại Trận hồ Trasimene vào năm 217 TCN.[171] Demetrios của Pharos được cho là đã thuyết phục Philippos V chiếm lấy Illyria trước tiên nếu muốn thực hiện một cuộc xâm lược nhằm vào bán đảo Ý.[note 11] Năm 216 TCN, Philippos V đã phái 100 chiếc thuyền chiến hạng nhẹ tới khu vực biển Adriatic để tấn công Illyria, một động thái mà đã khiến cho Scerdilaidas của vương quốc Ardiaei kêu gọi sự trợ giúp từ người La Mã.[172] Rome đã phản ứng lại bằng cách phái 10 chiếc quinquereme hạng nặng từ Sicily tới tuần tra khu vực bờ biển Illyria, điều này khiến cho Philippos V phải hủy bỏ kế hoạch và ra lệnh cho hạm đội của mình rút lui, ngăn chặn một cuộc chiến có thể xảy ra vào lúc đó.[173]

Chiến tranh với Rome

Vương quốc Macedonia (cam) dưới thời Philippos V (trị vì từ 221-179 TCN), với các quốc gia vệ tinh của Macedonia (vàng đậm), đế quốc Seleukos (vàng tươi), các vùng đất nằm dưới sự bảo hộ của người La Mã (xanh đậm), vương quốc Pergamon (xanh nhạt), các thành bang độc lập (tía nhạt), và những vùng lãnh thổ thuộc sở hữu của nhà Ptolemaios (tím tía)

Vào năm 215 TCN, vào giai đoạn đỉnh điểm của cuộc chiến tranh Punic lần thứ hai với đế quốc Carthage, chính quyền La Mã đã chặn đứng một chiếc thuyền ở ngoài khơi bờ biển Calabria, trên chiếc thuyền này có một phái viên người Macedonia và một sứ thần người Carthage đang giữ một hiệp ước được Hannibal Barca soạn thảo, nó là một tuyên bố về một liên minh với Philippos V.[174] Hiệp ước này quy định rằng chỉ có Carthage mới có quyền đàm phán các điều khoản về sự đầu hàng giả định của Rome và hứa trợ giúp lẫn nhau trong trường hợp sau khi được hồi sinh Rome sẽ tìm kiếm sự trả thù đối với Macedonia hoặc Carthage.[175] Mặc dù vậy người Macedonia có lẽ chỉ quan tâm đến việc bảo vệ những vùng đất mới được chinh phục của họ ở Illyria,[176] tuy thế người La Mã vẫn có thể ngăn trở bất cứ tham vọng lớn lao nào của Philippos V đối với khu vực Adriatic trong cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ nhất (214–205 TCN). Vào năm 214 TCN, Rome đã bố trí một hạm đội tại Oricus, nơi này cùng với Apollonia đã bị người Macedonia tấn công.[177] Khi người Macedonia chiếm Lissus vào năm 212 TCN, Viện nguyên lão La Mã đã phản ứng lại bằng cách xúi giục liên minh Aetolia, Sparta, Elis, Messenia, và Attalos I (trị vì từ 241-197 TCN) của Pergamon gây chiến chống lại Philippos V, giữ cho ông bận rộn và tránh xa khỏi Ý.[178]

Liên minh Aetolia đã ký kết một hiệp ước hòa bình với Philippos V vào năm 206 TCN, còn Cộng hòa La Mã đã đàm phán hiệp ước Phoenice vào 205 TCN để chấm dứt chiến tranh và cho phép người Macedonia giữ lại một số thành trì mà họ đã chiếm được ở Illyria.[179] Mặc dù người La Mã đã từ chối lời đề nghị của người Aetolia vào năm 202 TCN về việc Rome một lần nữa tuyên bố chiến tranh với Macedonia, Viện nguyên lão La Mã đã cân nhắc nghiêm túc đối với lời đề nghị tương tự tới từ Pergamon và đồng minh Rhodes của nó vào năm 201 TCN.[180] Những quốc gia này đã tỏ ra lo lắng về liên minh của Philippos V với Antiochos III Đại đế của đế quốc Seleukos, mà đã xâm lược đế quốc Ptolemaios vốn đã mệt mỏi vì chiến tranh và kiệt quệ về tài chính trong cuộc Chiến tranh Syria lần thứ Năm (202–195 TCN), khi Philippos V chiếm những thành trì của nhà Ptolemaios ở khu vực biển Aegea.[181] Mặc dù các phái viên của Rome đã đóng một vai trò chủ chốt trong việc thuyết phục Athens gia nhập vào liên minh chống Macedonia cùng với Pergamon và Rhodes vào năm 200 TCN, thế nhưng comitia centuriata (hội đồng nhân dân) đã bác bỏ đề nghị về việc tuyên chiến với Macedonia của Viện nguyên lão La Mã.[182] Trong khi đó, Philippos V đã chinh phục các vùng đất ở khu vực HellespontBosporus cũng như là đảo Samos của nhà Ptolemaios, điều này đã dẫn đến việc Rhodes thành lập một liên minh với Pergamon, Byzantium, Cyzicus, và Chios chống lại Macedonia.[183] Bất chấp trên danh nghĩa là đã liên minh với vị vua nhà Seleukos, Philippos V đã thua trận thủy chiến Chios vào năm 201 TCN và đã bị hạm đội của người Rhodes và Pergamon phong tỏa ở Bargylia.[184]

Một đồng tetradrachm thuộc về Philippos V của Macedonia (trị vì từ 221-179 TCN), với chân dung của nhà vua ở bên mặt phải và nữ thần Athena Alkidemos đang vung một tia sét bên mặt trái

Trong lúc Philippos V đang bận giao chiến với các đồng minh Hy Lạp của Rome, thì Rome lại coi điều này như là một cơ hội để trừng phạt người đồng minh cũ của Hannibal bằng một cuộc chiến tranh mà họ hy vọng là sẽ mang đến một chiến thắng và không cần quá nhiều nguồn lực.[note 12] Viện nguyên lão La Mã đã yêu cầu Philippos V chấm dứt chiến tranh chống lại các quốc gia Hy Lạp lân cận và tuân theo một ủy ban phân xử quốc tế để giải quyết các bất bình.[185] Khi comitia centuriata cuối cùng đã bỏ phiếu tán thành việc tuyên chiến của Viện nguyên lão La Mã vào năm 200 TCN và trao tối hậu thư của họ cho Philippos V, trong đó yêu cầu rằng một tòa án đánh giá thiệt hại gây ra cho Rhodes và Pergamon, vị vua của Macedonia đã bác bỏ điều này. Điều này đã đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh Macedonia lần thứ hai (200–197 TCN), với việc Publius Sulpicius Galba Maximus chỉ huy các hoạt động quân sự ở Apollonia.[186]

Bức tượng bán thân bằng đồng của Eumenes II của Pergamon, đây là bản sao La Mã của tác phẩm gốc được tạo ra vào thời kỳ Hy Lạp hóa, đến từ Điền trang giấy cóiHerculaneum

Người Macedonia đã thành công trong việc bảo vệ lãnh thổ của họ trong khoảng gần hai năm,[187] thế nhưng chấp chính quan La Mã Titus Quinctius Flamininus đã thành công trong việc đánh bật Philippos V khỏi Macedonia vào năm 198 TCN, buộc binh sĩ của ông phải thoái lui tới Thessaly.[188] Khi liên minh Achaea phản bội lại người Macedonia và đứng về phía Rome, vị vua của Macedonia đã cầu hòa, nhưng bởi vì các điều khoản đưa ra được cho là quá khắc nghiệt, và vì thế cuộc chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra.[188] Vào tháng 6 năm 197 TCN, người Macedonia đã bị đánh bại tại Trận Cynoscephalae.[189] Rome sau đó đã thông qua một hiệp ước mà buộc Macedonia phải từ bỏ phần lớn những vùng lãnh thổ Hy Lạp của nó ngoại trừ chính Macedonia, trừ khi nó đóng vai trò là một vùng đệm để đề phòng các cuộc tấn công của người Illyria và Thracia vào Hy Lạp.[190] Mặc dù một số người Hy Lạp nghi ngờ người La Mã có ý định thay thế Macedonia như là một thế lực bá chủ mới ở Hy Lạp, Flaminius đã tuyên bố tại thế vận hội Isthmia vào năm 196 TCN rằng Rome có ý định bảo toàn quyền tự do của người Hy Lạp bằng việc không để lại bất cứ đơn vị đồn trú nào và cũng không đòi hỏi cống nạp bằng bất cứ hình thức nào.[191] Lời hứa hẹn của ông đã bị trì hoãn bởi những cuộc đàm phán với vị vua Sparta là Nabis, vào lúc đó ông ta đã chiếm Argos, tuy vậy người La Mã đã rút quân khỏi Hy Lạp vào năm 194 TCN.[192]

Nhận được sự khuyến khích từ liên minh Aetolia và lời kêu gọi giải phóng Hy Lạp khỏi bàn tay của người La Mã từ họ, vị vua Seleukos Antiochos III đã đổ bộ cùng với quân đội của mình ở Demetrias, Thessaly, vào năm 192 TCN, và được người Aetolia bầu làm strategos.[193] Macedonia, liên minh Achaea, và các thành bang Hy Lạp khác đã giữ sự liên minh của họ với Rome.[194] Người La Mã sau đó đã đánh bại đế quốc Seleukos trong Trận Thermopylae vào năm 191 TCN và tiếp đó là trong trận Magnesia vào năm 190 TCN, điều này đã buộc nhà Seleukos phải trả một khoản bồi thường chiến tranh, phá hủy phần lớn hạm đội của họ, và từ bỏ yêu sách của họ đối với bất cứ vùng lãnh thổ nào nằm ở phía Bắc hoặc phía Tây của dãy núi Taurus theo hiệp ước Apamea vào năm 188 TCN.[195] Được sự chấp nhận của Rome, Philippos V đã có thể chiếm được một vài thành phố ở miền trung Hy Lạp mà vốn đã liên minh với Antiochos III vào năm 191–189 TCN, trong khi đó Rhodes và Eumenes II (trị vì từ 197-159 TCN) của Pergamon đã giành được những vùng lãnh thổ ở Tiểu Á.[196]

Thất bại trong việc làm vừa lòng tất cả các phe trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ khác nhau, vào năm 184/183 TCN Viện nguyên lão La Mã đã quyết định buộc Philippos V phải từ bỏ AenusMaronea, bởi vì chúng đã được tuyên bố là các thành phố tự do theo hiệp ước Apamea.[note 13] Điều này đã làm giảm bớt nỗi sợ hãi của Eumenes II rằng Macedonia có thể gây ra một mối đe dọa đối với những vùng đất của ông ta ở Hellespont.[197] Perseus của Macedonia (trị vì từ 179-168 TCN) đã kế vị Philippos V và xử tử người em trai Demetrios của mình, ông ta vốn được lòng người La Mã nhưng lại bị Perseus buộc tội phản quốc.[198] Perseus sau đó đã cố gắng thiết lập các liên minh hôn nhân với Prusias II của BithyniaSeleukos IV Philopator của đế quốc Seleukos, cùng với đó là đã nối lại các mối quan hệ với Rhodes mà đã khiến cho Eumenes II cảm thấy vô cùng lo lắng.[199] Mặc dù Eumenes II đã cố gắng làm suy yếu ngấm ngầm các mối quan hệ ngoại giao này, Perseus đã gây dựng một liên minh với liên minh Boeotia, mở rộng quyền lực của mình tới Illyria và Thrace, và vào năm 174 TCN, ông đã giành được vai trò quản lý ngôi đền Apollo tại Delphi với tư cách là một thành viên của hội đồng đại nghị liên bang.[200]

Bên trái, một đồng tetradrachm thuộc về Perseus của Macedonia (trị vì từ 179-168 TCN), Bảo tàng Anh. Bên phải, bức tranh Lễ diễu binh chiến thắng của Aemilius Paulus được vẽ bởi Carle Vernet, 1789.

Eumenes II đã đến Rome vào năm 172 TCN và đọc một bài diễn văn trước Viện nguyên lão để tố cáo sự vi phạm và các tội ác được quy cho là của Perseus.[201] Điều này đã thuyết phục được Viện nguyên lão tuyên bố cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ Ba (171–168 TCN).[note 14] Mặc dù Perseus đã giành chiến thắng trước người La Mã tại trận Callinicus vào năm 171 TCN, quân đội Macedonia đã bị đánh bại tại trận Pydna vào tháng 6 năm 168 TCN.[202] Perseus chạy trốn tới Samothrace nhưng ông đã đầu hàng ngay sau đó và bị đưa tới Rome cho lễ diễu binh chiến thắng của Lucius Aemilius Paullus Macedonicus, ông sau đó bị quản thúc tại Alba Fucens và qua đời tại đây vào năm 166 TCN.[203] Người La Mã đã bãi bỏ chế độ quân chủ của Macedonia bằng cách thiết lập bốn nước cộng hòa đồng minh riêng biệt thay cho nó, thủ phủ của chúng đặt tại Amphipolis, Thessalonica, Pella, và Pelagonia.[204] Người La Mã đã áp đặt các điều luật khắt khe ngăn cản những sự tiếp xúc về kinh tế và xã hội giữa các cư dân của những nước cộng hòa này, bao gồm cả việc cấm các cuộc hôn nhân giữa họ và (tạm thời) ngăn cấm việc khai thác vàng và bạc.[204] Một người tên là Andriskos đã tự xưng là hậu duệ của nhà Antigonos, ông ta sau đó nổi dậy chống lại người La Mã và được tuyên bố là vua của Macedonia. Ông đã đánh bại một đạo quân La Mã dưới quyền của vị praetor Publius Juventius Thalna trong cuộc chiến tranh Macedonia lần thứ Tư (150–148 TCN).[205] Bất chấp điều này, Andriskos đã bị đánh bại trong Trận Pydna lần thứ hai bởi Quintus Caecilius Metellus Macedonicus vào năm 148 TCN[206] Tiếp sau sự kiện này, người La Mã đã hủy diệt Carthage vào năm 146 TCN và giành chiến thắng trước liên minh Achaea trong Trận Corinth, mở ra thời kỳ Hy Lạp thuộc La Mã và sự thiết lập từ từ của Tỉnh Macedonia của La Mã.[207]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vương quốc Macedonia http://www.brill.com/etymological-dictionary-greek... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/354266/M... http://www.britannica.com/eb/art-84137/Ancient-art... http://www.seeker.com/remains-of-alexander-the-gre... http://www.youtube.com/watch?v=cuOxGMoHMMY&feature... http://www.ling.ohio-state.edu/~bjoseph/articles/g... http://jwsr.pitt.edu/ojs/index.php/jwsr/article/vi... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://www.perseus.tufts.edu/cgi-bin/ptext?doc=Per... http://www.perseus.tufts.edu/hopper/